Sôi động thương mại song phương
Theo Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam (MXV), trong khu vực ASEAN, Việt Nam là nền kinh tế quan trọng thứ hai đối với Australia xét về xuất khẩu hàng hóa, chiếm khoảng 2,1% trên tổng giá trị theo số liệu năm 2023.
Australia được coi là đối tác thương mại lớn thứ 7 của Việt Nam, đứng thứ 13 về xuất khẩu và thứ 9 về nhập khẩu. Ngược lại, Việt Nam cũng là đối tác thương mại lớn thứ 10 của Australia.
Số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, lũy kế đến 20/2/2024, cả nước thu hút được 631 dự án đầu tư của Australia với tổng số vốn là 2,037 tỷ USD. Các nhà đầu tư từ Australia đã đầu tư vào 18 ngành, lĩnh vực; trong đó, vốn đầu tư chủ yếu tập trung vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, với 954 triệu USD.
Thời gian qua, thương mại song phương giữa hai nước đã ghi nhận nhiều kết quả tích cực. Năm 2022, giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước đạt 15,7 tỷ USD, tăng 26,9% so với năm 2021. Năm 2023, thương mại hàng hóa hai chiều đạt gần 14 tỷ USD.
Các mặt hàng được xuất khẩu nhiều nhất sang Australia là sản phẩm điện thoại và linh kiện điện tử, máy móc, máy vi tính, và một số mặt hàng quan trọng khác như hàng dệt may, dầu thô, thuỷ sản, đây đều là nhóm hàng chủ lực của Việt Nam.
Chỉ tính riêng hai tháng đầu năm nay, mặc dù kim ngạch xuất khẩu nhiều mặt hàng thế mạnh của Việt Nam sang Australia còn khiêm tốn nhưng đã ghi nhận tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ. Trong đó, cà phê là mặt hàng có đà tăng ấn tượng nhất.
Xuất khẩu thủy sản sang Australia trong 2 tháng đầu năm nay tăng 33% so cùng kỳ. Ảnh: VietnamPlus
Tính đến tháng 2, kim ngạch xuất khẩu cà phê Việt Nam sang Australia tăng gần 1,5 lần so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 7,57 triệu USD, là mức cao nhất trong vòng 4 năm trở lại đây.
Tương tự, xuất khẩu thủy sản sang Australia cũng có mức tăng trưởng trong hai tháng qua, đạt 56,7 triệu USD, tăng 33% so cùng kỳ; trong đó, tôm chiếm trên 60% kim ngạch với 34 triệu USD, tương ứng tăng 20%; cá tra tăng gần 70%, đạt hơn 6 triệu USD…
Đáng chú ý, theo MXV, gạo Việt Nam cũng đã tạo ra sự đột phá tại thị trường Australia giai đoạn đầu năm 2024 và hứa hẹn sẽ tiếp tục là điểm sáng trong thương mại giữa hai nước.
Theo Tổng cục Hải quan Việt Nam, hai tháng đầu năm nay, giá trị xuất khẩu gạo sang Australia tăng 35,7% so với cùng kỳ năm ngoái. Với chất lượng cao và chiến lược xây dựng thương hiệu quốc tế hiệu quả, gạo Việt Nam không chỉ đáp ứng được các tiêu chuẩn khắt khe mà còn có cơ hội khẳng định vị thế tại thị trường này.
Ngược lại, Việt Nam tiếp tục nhập khẩu từ Australia các sản phẩm như than đá, quặng sắt, bông, lúa mì, kim loại, rau quả... Năm 2023, Việt Nam trở thành thị trường xuất khẩu bông sợi đơn lẻ lớn nhất của Australia, chiếm 40% tổng kim ngạch xuất khẩu bông sợi, gấp đôi thị phần năm 2020. Nước này là đối tác quan trọng cung cấp thủy sản cho Việt Nam, với sản phẩm chủ đạo là tôm hùm đá với khoảng 40.000 tấn/năm…
Cơ hội khai phá hàng hóa nguyên liệu mới
Mới đây, Việt Nam – Australia đã nâng cấp mối quan hệ lên Đối tác chiến lược toàn diện, trong đó nhấn mạnh một trong các mục tiêu hợp tác kinh tế, thương mại hiệu quả hơn trong tương lai.
Giám đốc Trung tâm Tin tức Hàng hóa Việt Nam Phạm Quang Anh nhìn nhận, các doanh nghiệp trong nước có thể chủ động tận dụng cơ hội này để thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng thế mạnh dù không mới đối với Việt Nam như gạo, cà phê, trái cây… nhưng lại có sức hút mới trên đất Australia.
Đáng chú ý, sự tăng cường hợp tác còn mang lại cơ hội khai phá những hàng hoá nguyên liệu rất mới là thế mạnh của Australia.
Hiện, Australia là quốc gia giàu có về tài nguyên kim loại, nằm trong top 3 trữ lượng khoáng sản quan trọng có nhu cầu cao trên toàn cầu, nổi bật nhất là kẽm, lithium, niken, coban, đồng… Các kim loại này đóng vai trò rất quan trọng trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng 0 (Net Zero).
Theo MXV, giai đoạn 2017 - 2023, nhu cầu từ ngành năng lượng đã khiến tiêu thụ lithium trên thế giới tăng gấp 3 lần, đồng tăng 4 lần, coban tăng 70% và nhu cầu về niken tăng 40%. Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA) dự báo, trong kịch bản Net Zero vào năm 2050, nhu cầu đối với các kim loại này có thể tăng gấp 3,5 lần cho đến năm 2030.
Ông Quang Anh cho rằng, trong tương lai không xa, bên cạnh các mặt hàng thế mạnh truyền thông, nguyên liệu kim loại được kỳ vọng có thể đóng góp vào kim ngạch thương mại song phương. Về dài hạn, nỗ lực tăng cường hợp tác cũng sẽ giúp hạn chế một số rủi ro liên quan tới sự khan hiếm nguồn cung kim loại trong bối cảnh nhu cầu được đánh giá là bùng nổ vào kỷ nguyên xanh sắp tới.