Quần thể kim tự tháp Giza. El Giza, Ai Cập. Ảnh: WitR
Mốc thời gian: 3050 TCN – 900 TCN
Công trình tiêu biểu: Quần thể kim tự tháp Giza
Đền thờ Horus. Edfu, Ai Cập. Ảnh: Graficam Ahmes Saeed.Đền Karnak. Luxor, Ai Cập. Ảnh: Zbigniew Guzowski
Đây là một trong những nền văn minh hùng mạnh và mang tính biểu tượng nhất trong lịch sử. Nhắc đến Ai Cập là nhắc đến những cấu trúc kim tự tháp, tuy nhiên đây không phải kiểu kiến trúc duy nhất mà người Ai Cập xây dựng. Trước khi có kim tự tháp, người Ai Cập cũng tập trung vào những khu phức hợp đền đài chi tiết, chú trọng đến vẻ đẹp thẩm mỹ và chức năng.
Bằng cách kết hợp sức mạnh kỹ thuật đáng kinh ngạc với tính biểu tượng phong phú, kiến trúc Ai Cập sẽ tiếp tục là hình mẫu trong nhiều thế kỷ tới. Cả kiến trúc Hy Lạp và La Mã cổ đại đều vay mượn các đặc điểm của Ai Cập, ví dụ các họa tiết cột cách điệu vào thời kỳ đầu của Hy Lạp và sự phát triển của các cột tháp (obelisk) La Mã.
Parthenon. Athens, Hy Lạp. Ảnh: anyaivanova
Mốc thời gian: 850 TCN – 476 sau CN
Công trình tiêu biểu: Parthenon
Pont du Gard. Vers-Pont-du-Gard, Pháp. Ảnh: kavramĐền. Rome, Ý. Ảnh: Viroj Phetchkhum
Kiến trúc Hy Lạp và La Mã cổ đại được coi là đặc trưng của kiến trúc cổ điển, củng cố ý tưởng xây dựng cấu trúc dựa trên khuôn mẫu nhất định. Các thức cột trong tiếng Hy Lạp – Doric, Ionic và Corinthian – vẫn được sử dụng cho đến ngày nay, cũng như bộ sách của KTS La Mã Vitruvius, “Về Kiến trúc” đã trình bày về tỷ lệ hài hòa trong kiến trúc vẫn còn nguyên giá trị. Từ quần thể Acropolis ở Athens cho đến Đấu trường La Mã và Điện Pantheon ở Rome đều là những biểu tượng mang tính lịch sử ở cả hai nền kiến trúc của người Hy Lạp và La Mã.
Những nền văn minh này cũng là bậc thầy về kỹ thuật với việc người La Mã xây dựng các hệ thống đường bộ và cầu dẫn nước đáng kinh ngạc để đưa hàng hóa thương mại và nguồn nước đi khắp quốc gia cũng như trải dài toàn bộ châu Âu.
Nhà thờ Hagia Sophia. Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ. Ảnh: Luciano Mortula
Mốc thời gian: 527 – 1453
Công trình tiêu biểu: Hagia Sophia
Lăng mộ Galla Placidia. Ravenna, Ý. Ảnh: vvoeTu viện Hosios Loukas. Distomo, Hy Lạp. Ảnh: Anastasios71
Kiến trúc Byzantine hình thành sau khi Hoàng đế Constantine chuyển thủ đô của Đế chế La Mã đến Constantinople (nay là Istanbul) vào năm 330 sau Công nguyên và phát triển dựa trên kiến trúc của La Mã cổ đại. Các nhà thờ được xây dựng theo phương án chữ thập kiểu Hy Lạp và gạch vữa tạo ra hoa văn hình học phức tạp nhằm mục đích trang trí. Các KTS đã tự do hơn với những trật tự cổ điển được xác định từ thời Hy Lạp.
Mặc dù Byzantium có lịch sử lâu đời nhưng hầu hết các kiến trúc mang tính biểu tượng đều hình thành ở giữa thời kỳ, khi đế chế đang ở giai đoạn hưng thịnh nhất.
Các công trình ban đầu như lăng Galla Placidia thể hiện lối trang trí khảm chi tiết, trở thành dấu ấn đặc trưng của phong cách này. Nhà thờ Hagia Sophia cũng toát lên năng lực kỹ thuật tuyệt vời của người Byzantine với hàng loạt mái vòm, các tháp bổ sung sau này của Ottoman không phải là một phần của thiết kế ban đầu. Trên thực tế, Hagia Sophia vẫn là nhà thờ lớn nhất thế giới cho đến năm 1520.
Mặc dù sau đó Byzantium cũng sụp đổ nhưng rất nhiều nền văn hóa đã bị ảnh hưởng bởi lối kiến trúc này. Ví dụ như Nhà thờ thánh Basil ở Moscow, được khởi công vào năm 1555, pha trộn giữa kiến trúc Byzantine với truyền thống của Nga.
Đền Kukulcan tại địa điểm khảo cổ Chichen Itza. Yucatán, Mexico. Ảnh: Jose Ignacio Soto
Mốc thời gian: 2000 TCN – 1519 sau CN.
Công trình tiêu biểu: El Castillo (Đền Kukulcan)
Kiến trúc Mesoamerican hay Tiền-Columbus là những công trình được xây dựng bởi các nền văn hóa bản địa khu vực mà ngày nay là Trung Mỹ, từ trung tâm Mexico đến phía bắc Costa Rica. Thời kỳ này được xác định là cổ điển nhất với kiến trúc Maya và các kim tự tháp bậc thang vĩ đại. Quy hoạch đô thị dưới sự dẫn dắt bởi niềm tin tôn giáo và thần thoại vì các nền văn hóa này tin rằng kiến trúc chính là một hình thức tín ngưỡng hữu hình của họ.
Các công trình kiến trúc Mesoamerican nổi bật với các khối đá nặng và sử dụng nhân lực khổng lồ để khắc phục những khiếm khuyết về công nghệ. Mặc dù những điều này hạn chế khả năng của họ trong việc xây dựng những mái vòm nhưng họ đã thích nghi để phát minh ra vòm trọng lượng nhỏ hơn. Kim tự tháp El Castillo tại thành phố Maya mang tính biểu tượng của Chichen Itza là minh chứng cho kiến trúc Tiền-Colombus. Kiến trúc sang trọng này về sau ảnh hưởng nhiều đến Frank Lloyd Wright, người đã theo đuổi phong cách Phục hưng của người Maya trong những năm 1920 – 1930.
Khu khảo cổ Palenque. Chiapas, Mexico. Ảnh: Anton_IvanovSân bóng tại Khu khảo cổ Copán. Copán, Honduras. Ảnh: Diego Grandi
Notre Dame. Paris, Pháp. Ảnh: gumbao
Mốc thời gian: 1150 đến 1530
Công trình tiêu biểu: Notre Dame
Phong cách kiến trúc Gothic khởi nguồn từ Pháp và đã lan rộng ra khắp lục địa, tồn tại hàng trăm năm. Đặc trưng của phong cách này ảnh hưởng lớn đến không ít nhà thờ nổi tiếng ở châu Âu với sự kết hợp của vòm nhọn, trụ chống tỳ, vòm có gờ, tạo độ thẳng đứng đặc biệt cho các công trình kiến trúc Gothic. Tăng chiều cao và giảm trọng lượng của các bức tường cho phép ánh sáng tràn qua các ô cửa kính màu.
Nhà thờ Đức Bà ở Paris không phải ví dụ đầu tiên về kiến trúc Gothic của Pháp nhưng chắc chắn là nổi tiếng nhất. Ở Ý, nhà thờ chính của Milan cho thấy mỗi nền văn hóa có cách tiếp nhận và phát triển Gothic khác nhau, ở đây là đường nét rực rỡ với mặt tiền được trang trí công phu.
Nhà thờ Milan. Milan, Ý. Ảnh: Boris StroujkoTu viện Westminster. Luân Đôn, Anh. Ảnh: Felix Lipov
Nhà Trắng của James Hoban. Washington DC. Ảnh: ESB Professional
Mốc thời gian: 1730 – 1925
Công trình tiêu biểu: Nhà Trắng
Ở phong cách này, các KTS quay trở lại mạnh mẽ với tư duy của bậc thầy thời Phục hưng Palladio, người bị ảnh hưởng bởi những ý tưởng của kiến trúc La Mã về tỷ lệ và sự hoàn hảo. Sự đơn giản này là một phản ứng đối với phong cách Baroque và Rococo được trang trí công phu phổ biến trong thế kỷ trước. Phong trào bắt đầu ở Anh, nơi thuật ngữ kiến trúc Palladian được đặt ra để chỉ những lý tưởng kiến trúc nhỏ bé này.
Phần lớn thủ đô Hoa Kỳ được xây dựng theo phong cách Tân Cổ điển, sau này gọi là phong cách Liên bang, bao gồm Nhà Trắng và Đài tưởng niệm Lincoln.
Khải Hoàn Môn của Jean Chalgrin và Louis-Étienne Héricart de Thury. Paris, Pháp. Ảnh: PigproxMonticello của Thomas Jefferson. Charlottesville, Virginia. Ảnh: Bruce Ellis
Hôtel Tassel. Brussels, Bỉ. Ảnh: Wikipedia
Mốc thời gian: 1890 – 1914
Công trình tiêu biểu: Hôtel Tassel
Trải rộng khắp các lĩnh vực kiến trúc, nghệ thuật và nghệ thuật ứng dụng, Art Nouveau là phong trào đối lập với chủ nghĩa hình thức của trường phái Tân cổ điển. Sử dụng những đường nét uốn lượn dựa trên tự nhiên, thiết kế nội thất và đồ đạc cũng quan trọng giống như thẩm mỹ của tòa nhà. Những tiến bộ trong cuộc cách mạng công nghiệp cũng khiến sắt thép được tô vẽ trang trí công phu, được thể hiện rõ thông qua hệ thống lan can uốn lượn và lan can ban công của các tòa nhà theo trường phái Art Nouveau.
Với mỗi quốc gia, trường phái này lại có tên gọi khác nhau. Nếu như thuật ngữ Art Nouveau được thể hiển ở tiếng Pháp thì trong tiếng Ý được gọi là Phong cách Tự do, Jugendstil ở Đức và Secession art ở Vienna.
Tòa nhà Secession của Otto Wagner. Thủ đô Viên, nước Áo. Ảnh: Romas_PhotoNgôi nhà thành phố của Osvald Polívka và Antonín Balšánek. Prague, Cộng hòa Séc. Ảnh: SvetlanaSF
Villa Savoye của Le Corbusier. Poissy, Pháp. Ảnh: Takashi Images
Mốc thời gian: 1900 – 1960
Công trình tiêu biểu: Villa Savoye của Le Corbusier
Kiến trúc hiện đại là thuật ngữ chung cho nhiều phong cách nổi bật của thế kỷ 20 và phát triển mạnh mẽ sau thế chiến thứ 2. Những tiến bộ của kính, thép và bê tông cốt thép đã mở ra nhiều ý tưởng cho các KTS thời đó. Trên tất cả, chủ nghĩa hiện đại là sự từ chối Tân cổ điển với sự thúc đẩy hướng đến các xu hướng mới định hình xã hội sau đống đổ nát của Thế chiến 2.
Thời kỳ chủ nghĩa hiện đại cũng nở rộ với những bậc thầy như Walter Gropius, người sáng lập trường phái Bauhaus, Le Corbusier, Frank Lloyd Wright và Oscar Niemeyer. Nhóm KTS này đã có những ý tưởng tiến bộ trong quy hoạch đô thị, khu dân cư và kiến trúc thương mại tiếp diễn trong thời Hậu hiện đại. Phần lớn những gì chúng ta coi là chuẩn mực bây giờ, chẳng hạn như những tòa nhà chọc trời có khung thép hoặc những ngôi nhà kiểu nông trại đều được phát triển trong thời kỳ này.
Tòa nhà Bauhaus của Walter Gropius. Dessau, Đức. Ảnh: Claudio DiviziaFallingwater của Frank Lloyd Wright. Mill Run, Pennsylvania. Ảnh: Wikipedia
Cité Radieuse, Marseille của Le Corbusier. Ảnh: Wikimedia
Mốc thời gian: 1950 – 1960.
Công trình tiêu biểu: Tòa nhà Breuer
Brutalism(chủ nghĩa thô mộc, thô bạo) nổi lên vào những năm 1950 và phát triển từ phong trào chủ nghĩa hiện đại đầu thế kỷ 20. Thuật ngữ này lần đầu tiên được trình bày bởi KTS người Anh Alison và Peter Smithson, bắt nguồn từ “Béton crazy” (bê tông thô) sau đó được Le Corbusier thể hiện qua Cite Radieuse ở Marseilles vào cuối những năm 1940.
Được đặc trưng bởi các đường thẳng, hình dạng khác thường, cửa sổ nhỏ và bề mặt chưa hoàn thiện, nhiều người nghĩ rằng những khối bê tông này không hơn gì những thứ đã lỗi thời. Tuy nhiên phong cách này vẫn được nhiều người tôn vinh và tồn tại cho đến ngày nay. Các tòa nhà hình học thường được sử dụng làm văn phòng, trường học, bãi đỗ xe, trung tâm giải trí mua sắm và các khu chung cư cao tầng. Trong khi hầu hết các công trình mang phong cách Brutalism này thấy nhiều ở châu Âu nhưng chúng cũng lan rộng ra khắp Hoa Kỳ, Úc, Israel, Nhật Bản và Brazil.
Tòa nhà Breuer ở Thành phố New York là một trong những công trình mang đậm dấu ấn Brutalist với cấu trúc bê tông nặng hàng đầu, từng nhận về không ít chỉ trích thời điểm đó nhưng ngày nay đã được chuyển đổi thành ngôi nhà của The Met Breuer, một bảo tàng nghệ thuật đương đại và hiện đại nổi tiếng.
Whitney Museum. Ảnh: Hagen StigerHabitat 67, Montreal. Ảnh: MY2200
Bảo tàng Guggenheim của Frank Gehry. Bilbao, Tây Ban Nha. Ảnh: Iakov Filimonov
Mốc thời gian: 1960 – 1990
Công trình tiêu biểu: Guggenheim Bilbao
Thoát khỏi những thiết kế khắc khổ, cứng nhắc của chủ nghĩa hiện đại, hướng đến khám phá lại những lý tưởng cổ điển, kiến trúc hậu hiện đại phát triển mạnh mẽ trong những năm 1990 với sự gia tăng của các yếu tố trang trí.
Một trong những người đề xướng chính cho kiến trúc hậu hiện đại là Robert Venturi, nổi tiếng với công trình Vanna Venturi House, được xây dựng năm 1964 và được coi là công trình tiên phong của phong cách này. Bảo tàng Guggenheim của KTS người Canada Frank Gehry ở Bilbao được xem là đỉnh cao của phong cách này.
Ngôi nhà Vanna Venturi của Robert Venturi. Philadelphia, Pennsylvania. Ảnh: Thư viện Quốc hội MỹTòa nhà Portland của Michael Graves. Portland, Oregon. Ảnh: Steve Morgan
The Shard. London, Anh. Ảnh: William Perugini
Mốc thời gian: 2007 đến nay
Công trình tiêu biểu: The Shard
Bắt đầu từ cuối thế kỷ 20, các KTS tin vào nhu cầu hiện đại hóa bằng cách tích hợp công nghệ mới, sử dụng những vật liệu bền vững với môi trường và cho rằng Tân Vị lai (Neo Futurist) có thể cải thiện chất lượng cuộc sống cho cư dân thành phố.
Phong trào kiến trúc này được phát động vào năm 2007 với Tuyên ngôn Thành phố Tương lai của nhà thiết kế Vito Di Bari. Trong đó, ông đề cập đến vấn đề “sự thụ phấn chéo của nghệ thuật, công nghệ tiên tiến và các giá trị đạo đức được kết hợp để tạo ra chất lượng cuộc sống cao hơn”. Zaha Hadid chính là nữ KTS thể hiện rõ nhất cá tính này thông qua hàng loạt các thiết kế “đường cong”. Các KTS khác như Renzo Piano cũng đã thiết kế lại tòa nhà chọc trời The Shard ở London và Santiago Calatrava.
Jockey Club Innovation Tower được thiết kế bởi Zaha Hadid. Hong Kong, China. Ảnh: e X p o s eTrụ sở Trung tâm Thương mại Thế giới của Santiago Calatrava. Thành phố New York, New York. Ảnh: MISHELLA